Lục bát để dành
[…]
Cha quen dành dụm nỗi buồn
Mẹ đem phơi với khô giòn nắng trưa
Bắt con tép mại làm vua
Con cáy làm giặc con cua làm hề
Bắt con sông Mã lôi về
Câu huầy dô ướt dầm dề trước sân
[…]
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh sinh năm 1934 tại Hà Tĩnh, còn có bút danh khác là Vũ Ngàn Chi. Ông vào bộ đội năm 1947.
Ông từng làm diễn viên sân khấu, hội viên Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, sinh họat tại Ðoàn kịch nói Quân đội. Ông tham gia diễn kịch, làm phim, viết báo nhưng việc chính là làm thơ. Bài thơ đầu tiên in năm 1955. Từ đó đến nay đã in mười hai tập thơ và hai tập bút ký.
Từ năm 1971 ông công tác tại Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Quân đội đến khi nghỉ hưu vào năm 1999 với quân hàm đại tá.
Phạm Ngọc Cảnh qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày 21 tháng 10 năm 2014 tại nhà riêng ở khu tập thể Nhà máy gỗ diêm Cầu Đuống cũ, Gia Lâm, Hà Nội.
Tác phẩm chính:
Thơ:
Bút kí:
Tự bạch:
Từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, nếu tôi nghe theo lời nhạc sĩ Phạm Duy, có lẽ tôi trở thành người hoạt động ở ngành nhạc. Nhưng tôi ham thích sân khấu. Tôi theo anh Bửu Tiến. Tôi phải vượt qua nhiều khó khăn để đứng được trên sàn diễn hai mươi lăm năm. Diễn viên kịch là một nghề cao quý. Có thể gắn bó trọn đời người. Nhưng phía sau các vai diễn là lớp son phấn tạo sự hóa thân kỳ diệu… tôi vẫn là tôi. Vẫn muốn có tiếng nói riêng của mình. Một thứ tiếng nói có thể đối thoại tiếp với một người. Không cần hai cánh màn khép mở. Không cần cái khung kịch bản văn học, kịch bản đạo diễn. Không đợi lên đèn. Những bài thơ đầu tiên ra đời khi tôi đã là diễn viên thực thụ. Và thế là tôi phạm nhiều khuyết điểm trong những quy chế nghiêm ngặt của sân khấu. Tôi phân thân. Chỉ chực thoát ra như con chim bị nhốt chặt trong lồng. Chính những bài thơ thời chống Mỹ tôi viết để tự cứu mình.
Rồi bầu trời thơ ca mênh mông, cánh rừng thơ ca thăm thẳm, cuộc tìm kiếm thơ ca đầy quyến rũ và không bị trói buộc ấy là của tôi. Một hành trình không có ga dừng, không có trạm nghỉ. Khi có dấu hiệu mệt mỏi, tôi thường ngoái lại gọi tên một người lính, một người tình. Hai người này chứ không phải ai khác đã cổ vũ tôi nâng sức tôi bay tiếp. Tôi đoán chắc rằng bài thơ sau cùng của cuộc hành trình đam mê và trắc ẩn cũng chỉ vì một trong hai người đó mà thôi.
6-1996
[…]
Cha quen dành dụm nỗi buồn
Mẹ đem phơi với khô giòn nắng trưa
Bắt con tép mại làm vua
Con cáy làm giặc con cua làm hề
Bắt con sông Mã lôi về
Câu huầy dô ướt dầm dề trước sân
[…]
[…]
Chén vơi quan họ ngà ngà
Lá răm mắt gió cuốn tha về vườn
Bên này bóng xế ngang sườn
Chiều xâu chỉ hát vòng cườm cỏ may.
[…]
Làng anh ở ven sông
Sắp vào tháng tư
Mắt tình tứ rủ nhau về hội Gióng
Mùi hương xông nụ cười lên nhẹ bỗng
Ai chẳng ngỡ mình đang đi trong mây
Ai chẳng tin mình đang rong ngựa sắt
Cả một vùng sông ai chẳng hát
Sao không nghe câu lý ngựa ô này.
Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say
Qua phá rộng duềnh doàng lên dợn sóng
Qua truông rậm
Đến bây giờ anh buộc võng
Gặp mối dây buộc ngựa gốc lim già
Suốt miền Trung sông suối dày tơ nhện
Suốt miền Trung núi choài ra biển
Nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua.
[…]
Mây lặng lờ qua cửa
Về núi đón giông chiều
Nhãn chùm em chia lửa
Ngọt gì trong nắng thiêu
Nỗi nhớ giật mình theo
Phía em về náo nức
Đẩy làm chi thuỷ triều
Lên bờ anh rạn nứt
Tưởng đâu còn điệp khúc
Tháng bảy lắm mưa nguồn
Cầu sang em ai buộc
Mỏng mảnh liềm trăng suông
[…]
Ta ru con sông Chu
Tưới cho đất lành giọt mát
Ta ru gói đồi cay như giọng hát
Hát ru tình đồi tha thiết yêu nhau
Xưa cuộc đời bạc xóa hoa lan
Trăng treo đầu non như liềm nhớ lúa
Xưa trong cằn khô đất thương giọt sữa
Câu hát ru cay đắng môi người
[…]
[…]
Đất giải phóng thênh thang
Sẽ cho ta dàn đội ngũ – sư đoàn
Phía trước gọi ta
Những Điện Biên vòng đai thép tung ra làm chiến dịch
Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích
Hành quân
Hành quân
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc
Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc
Trải bản đồ
Còn nguyên
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp
[…]