Thica.net

Mạng thi ca Việt Nam

Trang thơ Tản Đà

Tản Đà

Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 tức ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), nguyên quán ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.

Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là “gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại”. Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.

Gia đình Tản Đà thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Cha ông là Nguyễn Danh Kế, từng làm quan ngự sử trong triều Nguyễn. Mẹ ông là bà Lưu Thị Hiền, có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm, một đào hát tài sắc ở Hàng Thao – Nam Định.

Năm nhà thơ lên ba tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình trở nên cùng túng. Năm sau, vì bất hoà với nhà chồng, mẹ ông cũng bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Sau này một người chị ruột của Tản Đà cũng theo nghề mẹ. Tản Đà vì thế từ nhỏ được nuôi nấng chủ yếu bởi người anh cả là ông Nguyễn Tái Tích, sinh năm 1864, cũng làm quan dưới triều Nguyễn. Ông Tích là người thanh liêm chính trực, có nhiều ảnh hưởng to lớn tới cuộc đời sau này của Tản Đà.

Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được ông Tích nhiệt tình hướng vào con đường cử nghiệp. Theo hồi ký trong một bài thơ thì khi năm tuổi ông học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết, sáu tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích làm văn, lại được anh hết lòng chỉ dẫn, nên 14 tuổi đã thạo các lối từ, chương, thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức, một trường học thực nghiệm cải cách của Pháp mở ở Hà Nội, ông viết bài Âu Á nhị châu hiện thế bằng Hán văn, được các báo ở Hồng Kông đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.

Giai đoạn niên thiếu của Tản Đà phần lớn dành cho chuyện thi cử, đến năm 19 tuổi, ông mới có những rung cảm tình ái đầu đời. Đó là mối tình với con gái nhà tư sản Đỗ Thận. Năm sau ông lại yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường. Nhưng hai mối tình này đều không được đáp lại.

Năm 1909 Tản Đà dự kỳ thi hương ở Nam Định, rồi trượt trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong thời gian này, ông say mê một cô gái bán tạp hoá ở phố hàng Bồ. Vì nhà nghèo, không có tiền hỏi cưới, ông đành nuôi hy vọng bằng cách tiếp tục đường khoa cử. Đến kỳ thi, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị rớt vì môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi hương, nhưng lại trượt. Chuyện tình với cô bán sách tan vỡ, cô đi lấy chồng. Ông chán nản bỏ về Hòa Bình tìm khuây lãng. Tại đây nhờ sự giới thiệu của anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai người cùng vào dãy Hương Sơn, ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng. Lúc này lần đầu tiên ông đọc Tân thư, sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của ông ra đời trong giai đoạn này.

Năm 1913, ông Nguyễn Tái Tích qua đời. Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục Một lối văn nôm.

Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái ông Nguyễn Mạnh Hương tri huyện tỉnh Hà Đông, trở thành anh em cột chèo với nhà văn Phan Khôi. Cũng trong năm này, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ Khối tình con I.

Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Sau thành công của Khối tình con I ông viết liền cuốn Giấc mộng con I (in năm 1917) và một số vở tuồng: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phòng).

Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của Giấc mộng con I, Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán đó.

Từ 1919 tới 1921, Tản Đà ra nhiều sách và làm chủ bút Hữu Thanh tạp chí một thời gian. Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ.

Năm 1922, Tản Đà thành lập Tản Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà thư cục), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông, là nơi xuất và tái bản nhiều sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà như Tản Đà tùng văn (1922), Truyện thế gian (1922), Trần ai tri kỷ (1924), Quốc sử huấn nông (1924), và tập Thơ Tản Đà (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.

Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Thơ chính là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà. Ông được coi là một thi sĩ, hơn hết các nghề khác. Ông sáng tác rất nhiều thơ, nhiều thể loại – cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông hay diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực.

Thơ Tản Đà thường làm theo thể cổ phong, cũng có khi làm bằng Đường luật, đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông còn có tài sáng tác thơ dựa trên từ khúc, một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài Tống biệt, Cảm thu tiễn thu nhờ sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, có thể coi là cách tân về hình thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt nữa mà ở đó, Tản Đà được sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát… là hát nói hay ca trù. Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế.

Ngoài thơ tự sáng tác, thơ dịch của Tản Đà cũng được đánh giá rất cao. Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay hơn các bản dịch khác, có bài hay hơn cả nguyên tác, vì sự tự nhiên, không bị gò bó mà chuyển tải cả tâm hồn mình vào đó.

Năm 1926, Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời An Nam tạp chí số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Đây có thể nói là tờ báo chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam. Tản Đà có phong cách làm báo đặc biệt, thường xuất hiện trong những cuộc bút chiến với những giọng điệu khó lẫn. Sự nghiệp báo chí của Tản Đà, cũng như cuộc đời của ông, thường gặp gian nan trắc trở. Tờ An Nam tạp chí ba lần phải chịu cảnh đình bản vì lý do tài chính. Số báo cuối cùng ra ngày 1 tháng 3 năm 1933 trước khi bị đình bản vĩnh viễn.

Thời kỳ đầu làm chủ An Nam tạp chí, Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, ông thường đi du lịch: khi thì lên đề thơ ở núi Non Nước – Ninh Bình (bài Vịnh hòn đá), khi thì vào trung kỳ thăm Phan Sào Nam, khi thì ở Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng sống với con tướng Cần Vương đô thống Thuật. Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí An Nam cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo.

Giai đoạn này ông viết nhiều, các tập Nhàn tưởng (bút ký triết học, 1929), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1929), Khối tình con III (in lại thơ cũ), Thề non nước (truyện), Giấc mộng con II (truyện), lần lượt ra đời.

Năm 1931 – 1932, Tản Đà có cuộc bút chiến nổi tiếng với Phan Khôi về luân lý và Tống Nho.

Năm 1933, An Nam tạp chí đóng cửa trong bối cảnh phong trào Thơ mới đang nở rộ. Sự kiện này khi đó bị nhiều người thuộc phe Thơ mới đem ra cười cợt. Là nhà thơ nổi tiếng nhất trong làng thơ cũ đương thời, Tản Đà vẫn đã trở thành một đối tượng chính để những người thuộc phe thơ mới tìm cách đánh đổ.

Do ảnh hưởng của phong trào Thơ Mới và phong trào theo tân học, Tản Đà, con người thuộc phe cựu học, làm thơ cũ đã dần dần trở nên cô độc. Tên tuổi ông gần như bị đẩy lui vào dĩ vãng, nhường chỗ cho các nhà thơ mới: Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… Cộng với việc An Nam tạp chí đình bản vĩnh viễn, cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn, phải chạy ngược chạy xuôi để kiếm sống. Có khi người ta thấy ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, đăng quảng cáo lên mấy tờ báo: “Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội – Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói.

Những năm cuối đời trải qua hắt hiu, buồn thảm như thế, nhưng Tản Đà còn được an ủi là ông bỗng được mọi người quan tâm trở lại. Phe Thơ mới sau chiến thắng đã không còn đả kích Tản Đà. Họ bắt đầu lật lại những gì Tản Đà đã cống hiến xưa nay, họ ca ngợi Tản Đà, xem ông như một ông Thánh của làng thơ…

Lúc này sức khỏe của Tản Đà đã suy yếu, ông dành hết tâm sức cho việc dịch thuật và biên tập: Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh (Tân Dân xuất bản, 1937), Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện (in năm 1940, sau khi ông mất), Thời hiền thi tập, Khổng Tử lược truyện (đã thất lạc)…

Ngày 7 tháng 6 năm 1939 tức ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Mão, Tản Đà mất sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, trên chiếc giường nát tại nhà riêng số 71 Ngã Tư Sở, Hà Nội, để lại vợ và bảy đứa con. Ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội.

Tác phẩm chính:
Thơ:

  • Khối tình con I (1916)
  • Khối tình con II (1916)
  • Tản Đà xuân sắc (1918)
  • Khối tình con III (1932)
  • Văn:

  • Giấc mộng con I (1917)
  • Giấc mộng con II (1932)
  • Giấc mộng lớn (1932)
  • Thề non nước (1922)
  • Tản Đà văn tập (1932)
  • Kịch:

  • Tây Thi (1922)
  • Tống biệt (1922)
  • Dịch thuật:

  • Liêu Trai chí dị (1934)
  • Nghiên cứu:

  • Vương Thúy Kiều chú giải (1938)

    • Đêm suông phủ Vĩnh


      Ðêm suông vô số cái suông xuồng,
      Suông rượu, suông tình, bạn cũng suông!
      Một bức màn con coi ngán nỗi,
      Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng,
      Một vừng trăng khuất đi mà đứng,
      Một lá mành treo cuốn lại buông,
      Ngồi hết đêm suông, suông chẳng hết,
      Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông.

    • Tống biệt


      Lá đào rơi rắc lối thiên thai
      Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi
      Nửa năm tiên cảnh
      Một bước trần ai
      Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
      Đá mòn, rêu nhạt.
      Nước chảy, huê trôi
      Cái hạc bay lên vút tận trời
      Trời đất từ nay xa cách mãi
      Cửa động
      Đầu non
      Đường lối cũ
      Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi …

    • Thăm mả cũ bên đường


      Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà,
      Đường xa, người vắng, bóng chiều tà,
      Một dãy lau cao làn gió chạy,
      Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.

      Ngoài xa trơ một đống đất đỏ,
      Hang hốc đùn lên đám cỏ gà.
      Người nằm dưới mả, ai ai đó?
      Biết có quê đây hay vùng xa?

      Hay là thuở trước kẻ cung đao?
      Hám đạn liều tên quyết mũi đao.
      Cửa nhà xa cách vợ con khuất,
      Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao,

      Hay là thuở trước kẻ văn chương?
      Chen hội công danh nhỡ lạc đường.
      Tài cao phận thấp chí khí uất,
      Giang hồ mê chơi, quên quê hương.

      […]