Thica.net

Mạng thi ca Việt Nam

  • Làng tôi

    Tác giả:

    Trích trường ca

    Làng tôi cũng có sông cùng núi
    Núi nhỏ, con sông chảy lặng lờ
    Lụt năm Tỵ ((Trận lụt năm 1929)) dân xiêu đi quá nửa
    Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ

    Nhà cửa dỡ bán củi ăn từng bữa
    Rau má bờ đê đẽo nhẵn lì
    Ba sào ruộng đồi cơm thiu một nắm
    Ăn hết vèo, mai biết sống bằng chi

    Nền nhà trống, ếch kêu chân lỗ cột
    Vườn hoang tàn, bạc phếch ánh trăng soi
    Người lũ lượt kéo nhau đi hành khất
    Cha dìu con… gục xuống, mòn hơi rồi

    Anh em nhà lý trưởng Cời
    Thừa lúc làng xiêu dân đói
    Ruộng đất phình ra, văn tự nứt hòm gian
    Dinh cơ lớn mọc thêm nhiều mái ngói…

    Tôi mười một mười hai còn đóng khố
    Phải ẵm em cho mẹ, mẹ làm thuê
    Chiều hôm bụng đói, em thì quấy
    Ngóng mẹ đường thôn túm gạo về

    Trời nhập nhoạng, bếp um lửa khói
    Đèn khô phao, nền đất dọn ăn thầm
    Nhai nhếu nháo, sờ mồm em, mẹ mớm
    Lưng vực xong, mẹ giũ chiếu đi nằm

    Có thím Hợi mù lòa cạnh vách
    (Trận lụt làm chết sạch cả chồng con)
    Cứ tối tối thím kể Bần nữ thán ((Bản trường ca dân gian kể về nỗi niềm của người con gái nghèo))
    Tỉ tê giọng oán câu hờn…

    Thím ngày tháng hát xẩm rong độ nhật
    Chỉ lo phiền chết chẳng áo quan chôn
    Bến đò vắng, phiên chợ làng cũng vắng
    Vắng tiếng tiền chinh gieo rạn đáy thau mòn…

    Giọng thím hát mỏi mòn, ẩm ướt
    Trộn đầy nước mắt, mưa thu
    Nghe mẹ thở dài, biết mẹ còn trằn trọc
    Chắc mẹ thương thân, lại nhớ sự tình xưa

    *

    Mẹ tôi
    Con gái làng Mai
    Ai cũng phải khen rằng đẹp
    Giọng hát hay nghe cứ rót vào tai
    Tài cấy gặt đố người nào đuổi kịp

    Mười tám tuổi gả về xóm Núi
    Phá đất sườn non, vợ cuốc chồng cày
    Bốn bận sinh, còn lại một trai một gái
    Lý trưởng bắt chồng đăng lính sang Tây

    “Thùng thùng trống đánh ngũ liên
    Bước chân xuống thuyền…”
    Vợ chồng đôi ngả
    Con sông chảy mãi về đâu?
    Bóng núi đè thâm mái rạ…

    Một hôm có giấy quan về
    (Ngỡ thế nào kia
    Ngờ đâu ra thế!)
    Lý Cời qua ngõ tạt vào
    Rượu vẫn còn say bí tỉ
    Tờ giấy mở ra
    Trắng lốp một màu tang chế
    “Này chị ấy ơi
    Giấy trên vừa mới chạy về
    Chồng chị chết rồi, bên nước mẹ
    Chính phủ Lang Sa
    Đền công chồng chị
    Đây tấm bằng suất đội kèm theo
    Chữ kí quan Tây
    Triện đồng đỏ chóe
    Chị giữ lấy mà treo
    Một bước lên bà
    Sướng nhé!”
    Hắn vê ria mép cười tình
    Nhay nháy mắt lươn ti hí
    “Này! Lo lợn gạo mà khao
    Bà đội nhà tôi ơi! Lệ làng phải thế
    Có cần tiêu, tôi ứng tiền cho
    Muốn trả, muốn không, tùy bụng chị.
    Cứ ừ một tiếng là xong
    Bà cả nó vốn hiền lành, tử tế…
    Người thế kia mà lận đận chồng con
    Nghĩ thương đáo để!”
    Hắn về rồi, hơi rượu vẫn còn hăng
    Trời đất tối rầm, đầu gối run lên muốn quỵ
    Nước mắt dài hơn người
    Lòng rối như canh hẹ
    Con thơ níu áo hỏi dồn:
    “Ông lý cho gì hở mẹ?”

    Thế là
    Áo trái đường khâu
    Chèn thêm chốt cửa
    Bỏ ngoài tai câu ý câu tình
    Sụp vành nón, hội hè chẳng ngó

    Giọng hát véo von
    Mẹ dành để ru con ngủ
    “Ạ ời ơi
    Cái ngủ mày ngủ cho lâu
    Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về…”
    Ăn đói làm thuê
    Cơm niêu nước lọ
    Mẹ ở vậy nuôi con
    Tháng năm vò võ…

    Tôi có thằng bạn nhỏ
    Bằng tuổi nhau, nghèo khổ cũng ngang nhau
    Bố nó bỏ làng bán mình cho Sở mộ ((Sở mộ phu làm đồn điền, vào Nam Kỳ hoặc đi các thuộc địa của Pháp))
    Giữa bể Đông, bão lớn, chìm tàu…

    Tên nó là Đinh, mặt mày rắn cấc
    Có tài bắn súng cao su
    Trăm phát chẳng sai một phát
    Chạng ổi giơ cao, viên đạn đất bay vù…

    Nó mấy năm ròng lẽo đẽo
    Ở chăn trâu cho nhà lý trưởng Cời
    No đòn vọt mà đói cơm đói cháo
    Vết lằn roi không kịp lặn trên người

    Rỏ máu mắt ngủ bên ổ chó
    Ngậm bồ hòn than thở cùng trâu
    Vợ lý trưởng bắc ghế ngồi chửi rủa
    Đào cha ông mồ mả đổ lên đầu

    Đinh thả trâu quanh sườn núi bờ sông
    Bắn chim chóc giấu đem về cho mẹ
    Rau má độn cơm, bà chẳng bữa nào no
    Người phù thũng, da vàng như xát nghệ

    Bỗng một hôm Đinh chạy đến tìm tôi
    Mặt tím lại, mắt đỏ hoe muốn khóc
    Giơ lưng, lật áo cho xem
    Máu chảy thành dòng
    Lằn roi vọt quất ngang quất dọc:

    “Mày ở nhà thôi, khổ quá, tao đi
    Xó chợ, đầu đường, ra Đông ((Hải Dương)), ra Bắc ((Bắc Giang))
    Cũng cứ liệu thôi!
    Ở với nó có ngày chết mất!”
    Nói rồi nó bỏ đi luôn
    Tôi đứng nhìn theo quệt ngang nước mắt

    Nhưng ngay chiều ấy
    Đinh lại quay về
    Nó đứng đầu hè
    Khẽ máy tôi ra, thủ thỉ
    “Mày ơi, nghĩ lại không đành
    Đi thì yên một thân tao
    Mẹ ốm, lấy ai nuôi mẹ?
    Cái kiếp thằng tao
    Sao mà khổ thế!
    Tí nữa đây tao ló mặt về
    Cầm chắc ăn đòn bội nhị”
    Nó lắc đầu, ra vẻ muốn quên đi
    Những trận đòn đau sắp tới:
    “Thôi lại sáng mai
    Bến đò nhé, cõng em theo, tớ đợi
    Bờ sông lúc nãy tớ đi qua
    Sáo sậu về vô khối
    Ngày mai bắt sống một con chơi
    Lột lưỡi dạy cho nó nói…”

    *

    Tết đến, xuân về
    Phây phây mưa bụi
    Xanh non lá lộc nhú cành khô
    Tím nhạt hoa xoan rơi ngõ lội
    Xuân vui nhà ngói nhà lim
    Xuân chẳng vui gì nhà tre xóm Núi
    Nhà lý trưởng Cời
    Pháo đốt điếc tai từ sáng tinh mơ tới tối
    Nhà tôi tết đến cũng như không
    Ba nén hương đen
    Thơm chẳng có thơm nhưng cũng khói

    Xong tết bên sông làng mở hội
    Một hàng cờ cắm đỏ đuôi nheo
    Mặt sông chẳng ngớt đò qua lại
    Vách núi ầm vang tiếng trống chèo

    Ba gian đình cổ người đông nghịt
    Trống cái, dùi găng, lý trưởng dẻo tay chầu
    Tôi rủ Đinh chen vào góc cột
    Chèo Thạch Sanh đang dọn lớp giáo đầu

    Hồi trống giãn trò vừa dứt
    Cũng vừa gà gáy sang canh
    Sương trắng mù sông, gió tháng giêng vẫn lạnh
    Hai trẻ nhà nghèo manh áo vá phong phanh

    Đò trở ngang sông
    Đinh ghé tai tôi nói nhỏ:
    “Lúc nãy tao trông lão lý trưởng Cời
    Sao giống hết Lý Thông, mày ạ!
    Cũng ria mép đen thui,
    Cũng mắt lươn trắng dã
    Từ rày đừng gọi Lý Cời
    Cứ gọi Lý Thông, nhớ nhá!”

    Sau đêm chèo lòng tôi tơ tưởng mãi
    Tôi thường bàn tán với Đinh
    Thương họ Thạch hàn vi côi cút
    Ôi, cảnh chàng ta sao giống cảnh tụi mình
    Đêm rặt nằm mơ tiên cho phép lạ
    Thấy gốc đa nào cũng ngỡ có Thạch Sanh…

    Đinh vội cướp lời, kể lể
    “Tao cũng thế, cũng nằm mơ thấy thế
    Tao đương cắt cỏ bờ sông
    Tiên hiện lên, dạy nhiều phép thần thông
    Tao tức tốc chạy về nhà lý trưởng
    Thằng Lý Cời – thằng Lý Thông luống cuống
    Vội vàng nó hóa Trăn Tinh
    Phun lửa đốt tao, lửa bốc tày đình
    Tao không sợ, tao liền hóa phép
    Chăng lưới thép, giơ búa thần lẫm liệt
    Chém đứt đầu trăn máu chảy ròng ròng…”

    Hai đứa nhìn nhau thích chí
    Tưởng đâu đời sắp sướng rồi
    Như họ Thạch hết hồi bĩ cực
    Được gảy đàn thần, cưới vợ, lên ngôi…

    Nhưng rồi, hai đứa chúng tôi
    Sự thật ngày thêm cơ cực quá
    Chẳng một lần được tiên cho phép lạ
    Những giấc mơ theo ngày tháng tàn phai
    Xóm Núi, làng Mai
    Nghèo đói càng thêm nghèo đói
    Thím Hợi hát rong không sống nổi
    Chậu thau mòn bán rẻ tự hồi xưa
    Bị gậy xin ăn, cơm cặn canh thừa
    Đêm mưa tối vẫn kể Bần nữ thán
    Mẹ tôi da dẻ ngày đen sạm
    Kỳ giở giời lưng nhức chân tê
    Những hôm mưa gió dầm dề
    Ba mẹ con chỉ ngày lưng bát cháo
    Nghèo rớt mồng tơi
    Không mua nổi chỉ kim vá áo
    Những chỗ rách to đành buộc túm bằng rơm
    Thằng bạn Đinh mấy bận ngỡ đi luôn
    Mấy bận lại quay về chịu đánh
    Lưng cháy nắng lại roi lằn máu quánh
    Súng cao su không bắn chết được chằn tinh
    Xám ngắt ao tù
    Ngày tháng quẩn quanh
    Cùng đường nghẽn lối
    Lý trưởng Cời cây thóc cao ngang núi
    Xây nhà tây chót vót hai tầng
    Cửa sổ há ra như mồm những con trăn
    Muốn nuốt chửng cả làng Mai xóm Núi
    Trong nhà nó cứ vui như mở hội
    Tiệc tùng luôn, xóc đĩa, tổ tôm tràn
    Dựng cổng chào, hương án, đón xe quan
    Bật rạp lớn, thui bò non, hạ thọ
    Tây với Nhật ra vào lố nhố
    Bắt phu, cướp thóc
    Nghênh ngang súng ngắn gươm dài
    Khắp cả vùng ngậm đắng nuốt cay
    Trời nghiêng đất lệch

    *

    Mẹ Đinh chết, gói lạt tre chiếu rách
    Xé giát giường làm bó đuốc, đưa đêm
    Trước lúc xuôi tay bà chỉ ước ao thèm
    Một bát canh cần cá quả
    Tiền chẳng một chinh, Đinh đã hết đường xoay xỏa
    Nhà lý Cời cá béo sống đầy chum
    Đinh đánh liều lấy trộm một con
    Về nấu bát canh cho mẹ
    Trời xiêu bóng xế…
    Đinh múc canh bưng đến cạnh giường
    Nhưng mẹ Đinh tay đã bắt chuồn chuồn
    Không ăn được nữa
    Đinh trợn mắt, rụng rời nghẹn thở
    Bát canh rơi vỡ tan tành…

    Tối hôm sau tôi đến tìm Đinh
    Cuối xóm đường đi lút cỏ
    Rờn rợn mùi hương
    Lều tối lóe lên ba chấm đỏ
    Đinh đang quỳ khấn nỉ non
    “Mẹ có khôn thiêng phù hộ cho con…”
    Biết tôi đến, Đinh đứng lên, bí mật:
    “Tao đi thật, chuyến này đi thật
    Tao định rủ mày, hai đứa với nhau…”
    Tôi hỏi: “Đi đâu?”
    Nó rằng: “Không phải hỏi
    Đâu cũng được, Sơn Tây, Hà Nội
    Thân lập lấy thân
    Hai bàn tay làm lấy mà ăn
    Không để đói, không để ai đánh chửi”

    Dằng dặc trời sao chấp chới
    Gió may sương muối rét tê người
    Hai đứa vòng qua ngõ lý Cời
    Dừng lại ngó tòa nhà tây cao ngất
    Cửa kính xanh lè, tường vôi trắng toát
    Đừng lù lù như con Mãng Xà Vương
    Tu luyện lâu năm, chắn lối ngăn đường
    Đinh chửi một câu, rút súng cao su lắp đạn
    Giơ chạng ổi kéo căng dây, nó bắn
    Nghe một tiếng choang
    Một khung kính cửa vỡ tan
    Đàn chó sủa ầm hốt hoảng
    Hai đứa vội vàng ba chân bốn cẳng…

    Trời rét
    Đêm khuya
    Đò vắng
    Cởi áo quần hai đứa lội qua sông
    Tưởng mình như hai gã tiểu đồng
    Lặn lội tìm Tiên xin phép lạ
    Nghĩ tới mẹ cùng em, bỗng dưng tôi nhớ quá!
    Qua sông. Trời sắp sáng rồi
    Ngoảnh trông xóm Núi bồi hồi
    Chắc mẹ đêm qua lại khóc
    Xóm Núi sương giăng
    Mặt trời chưa mọc
    Đó đây nghe đã rộn canh gà

    Bỏ làng đi năm bốn mươi ba ((1943))
    Hai đứa mới mười sáu tuổi…

    Nam Định 1961

    Bình luận

    ví dụ: http://www.example.com

    Lời bình: (Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu)